Vắc xin MMR II là vắc xin sống, giảm độc lực dùng để tiêm phòng cùng một lúc 3 loại bệnh: sởi, quai bị, rubella, cho người lớn và trẻ em từ 12 tháng tuổi trở lên.
MMR
được sản xuất bởi công ty dược phẩm Merk Sharp & Dohme của Mỹ, và được sử
dụng tại các phòng tiêm vắc xin dịch vụ trong cả nước.
Thông tin tóm tắt vắc xin phòng sởi, quai bị,
rubella MMR
Tên thương mại: M-M-R II (MMR)
Công ty sản xuất: Merck Sharp & Dohme
Xuất xứ: Mỹ
Thành phần:
- ATTENUVAX® (vắc xin sống
virus sởi của MSD)
- MUMPSVAX® (vắc xin sống
virus quai bị của MSD)
- MERUVAX®II (vắc xin sống
virus rubella của MSD)
- Tá dược: Sorbitol; natri phosphat;
sucrose; NaCl; Gelatin thủy phân; albumin người tái tổ hợp; huyết thanh
phôi thai bò; neomycin; và một số chất đệm, môi trường khác.
Quy cách đóng gói:
- Một hộp gồm 10 lọ vắc xin đơn liều được
đông khô.
- Đi kèm với 1 hộp gồm 10 lọ dung môi
(Hộp dung môi có thể bảo quản ở nhiệt độ phòng)
Chỉ định:
M-M-R
II được dùng để tạo miễn dịch chủ động phòng bệnh: sởi, quai bị và rubella ở
trẻ từ 12 tháng tuổi trở lên.
Lịch chủng ngừa:
Lịch tiêm chủng khuyến cáo:
- Tiêm cho trẻ ≥ 12 tháng tuổi một
mũi 0,5 ml. Nên tiêm mũi nhắc lại lúc trẻ 4 – 6 tuổi, vì nguy cơ tái nhiễm
tăng cao khi trẻ bắt đầu vào tiểu học.
- Người lớn, phụ nữ trước khi mang thai
tối thiểu 3 tháng tiêm một mũi duy nhất. Nếu cần thiết thì sau 3 – 5 năm
có thể tiêm nhắc lại.
Lịch tiêm chủng khi có dịch sởi
- Vắc xin được khuyến cáo tiêm cho trẻ
trên 12 tháng tuổi bởi vì trẻ dưới 12 tháng tuổi có thể vẫn còn kháng thể
thụ động chống sởi từ mẹ truyền sang. Do vậy trẻ có thể sẽ không đáp ứng với
thành phần sởi của vắc
xin (tỷ
lệ chuyển đổi huyết thanh trẻ càng nhỏ thì càng thấp).
- Tuy nhiên tại vùng đang có dịch sởi
lưu hành thì vẫn có thể tiêm cho trẻ nhỏ từ 6 – 12 tháng tuổi. Với các đối
tượng này thì vẫn cần phải tiêm nhắc lại khi trẻ 12 -15 tháng tuổi và tiêm
một mũi nữa lúc trẻ 4 -6 tuổi.
Các khía cạnh khác của tiêm chủng:
Thiếu nữ và phụ nữ trưởng thành lúc
không mang thai:
Trong
thời kỳ mang thai nếu người mẹ bị nhiễm rubella, có thể gây tử vong hoặc dị tật
cho thai nhi. Vì vậy việc tiêm chủng cho các đối tượng này trước khi có ý định
mang thai (tối thiểu cách 3 tháng sau khi tiêm vắc xin) là cần thiết, sẽ giúp
bảo vệ mẹ và bé khỏi nhiễm bệnh trong giai đoạn mang thai.
Tiêm chủng cho đối tượng bị phơi
nhiễm:
- Chưa có nghiên cứu, dữ liệu lâm sàng
cho thấy việc tiêm chủng sau ngay sau khi phơi nhiễm với virus sởi hoặc
rubella tự nhiên đem lại hiệu quả bảo vệ. Tuy nhiên vẫn khuyến cáo tiêm chủng
cho các đối tượng trong vòng 72 giờ sau khi tiếp xúc virus sởi tự nhiên.
- Việc tiêm chủng vài ngày trước
khi phơi nhiễm thì có thể có tác dụng bảo vệ sẽ cao hơn.
Các quần thể khác nên chủng ngừa vắc
xin:
- Nên tiêm vắc xin MMR cho trẻ > 12
tháng tuổi mà trước đó trẻ chưa được chủng ngừa. Đặc biệt là các trẻ thường
xuyên tiếp xúc với phụ nữ mang thai, để giảm lây nhiễm và nguy cơ cho phụ
nữ mang thai.
- Những người đi du lịch đến vùng có
nguy cơ cao mà trước đó chưa được tiêm phòng hoặc nhiễm bệnh sởi, quai bị,
rubella tự nhiên thì nên chủng ngừa MMR để tránh nhiễm bệnh và mang mầm bệnh
khi trở về.
- Các đối tượng có nguy cơ cao cũng nên
chủng ngừa MMR như: Nhân viên y tế, công an, nhân viên quân sự…
Đường dùng:
- Liều lượng cho mọi lứa tuổi là 0,5 mL
tiêm dưới da hoặc tiêm bắp.
- Vị trí thích hợp là khu vực trước bên
đùi của trẻ nhỏ và vùng cơ delta đối với trẻ lớn, thiếu niên và người trưởng
thành.
- Không tiêm bắp ở những bệnh nhân bị
suy giảm tiểu cầu hoặc rối loạn đông máu.
Chống chỉ định:
- Đối tượng mẫn cảm với bất kỳ thành phần
nào của vắc-xin, kể cả các thành phần tá dược.
- Chưa có dữ liệu lâm sàng nghiên cứu
khi tiêm cho phụ nữ mang thai. Do vậy chống chỉ định tiêm cho phụ nữ mang
thai. Phải tránh mang thai trong 3 tháng sau khi tiêm chủng.
- Đối tượng đang bị sốt, có bệnh lý đường
hô hấp hoặc mắc các bệnh nhiễm trùng đang tiến triển.
- Người mắc bệnh lao đang tiến triển mà
chưa được điều trị.
- Người suy giảm miễn dịch hoặc đang
dùng các thuốc ức chế miễn dịch. Trừ đối tượng đang dùng corticoid
làm liệu pháp thay thế như trong bệnh Addison.
- Đối tượng rối loạn về tạo máu, bệnh bạch
cầu, u hạch ở mọi thể, hoặc những khối u tân sinh ác tính khác có ảnh hưởng
tới tủy xương hoặc tới hệ bạch huyết.
Thận trọng:
- Đối tượng có tiền sử mẫn cảm với trứng
vì vắc xin MMR được sản xuất trong môi trường tế bào phôi gà.
- Người bị giảm tiểu cầu bởi sau khi
tiêm chủng, có thể xảy ra giảm tiểu cầu nặng hơn trên người bệnh giảm tiểu
cầu sẵn có. Ngoài ra, những người bị giảm tiểu cầu sau liều đầu sử dụng
M-M-R II có thể bị giảm tiều cầu khi tiêm nhắc lại.
- Chưa có dữ liệu lâm sàng về tính an
toàn và hiệu quả của vắc xin MMR đối với bệnh sởi ở trẻ dưới 6 tháng tuổi.
- Cũng chưa có nghiên cứu về hiệu quả
và tính an toàn của vắc xin đối với bệnh quai bị và rubella ở đối tượng dưới
12 tháng tuổi.
- Có thể tiêm vắc xin cho người nhiễm
HIV nhưng không có các biểu hiện suy giảm miễn dịch. Tuy nhiên những đối
tượng này có thể đáp ứng miễn dịch kém hơn và không được như mong đợi.
- Sau khi tiêm vắc-xin 7-28 ngày có thể
có một lượng nhỏ vi-rút rubella sống giảm độc lực bài tiết ra ở mũi và họng.
Chưa có bằng chứng virus được bài tiết đó sẽ lây nhiễm cho những người
khác. Tuy nhiên về lý thuyết, việc tiếp xúc gần gũi có thể có lan truyền
virus nhưng điều này không được xem là nguy cơ đáng kể.
- Các vắc xin chứa virus sởi, quai bị,
rubella sống, giảm độc lực khi tiêm riêng lẻ có thể làm giảm tạm thời độ
nhạy của xét nghiệm lao qua da. Vì vậy, để xét nghiệm lao qua da
chính xác thì nên làm xét nghiệm trước hoặc cùng lúc với tiêm M-M-R II.
- Thận trọng cho người có tiền sử gia
đình hoặc cá nhân bị co giật hoặc bị tổn thương não.
- Cũng như mọi vắc xin khác phải luôn
chuẩn bị sẵn các phương tiện y tế để đề phòng shock phản vệ. Và việc tiêm
chủng M-M-R II không đem lại sự bảo vệ cho 100% cho tất cả các đối tượng.
Phụ nữ có thai và cho con bú:
- Thời điểm tiêm vắc xin MMR nên tối
thiểu cách khoảng 3 tháng trước khi có ý định mang thai.
- Chưa có nghiên cứu virus sởi hay quai
bị có bài tiết qua sữa mẹ hay không. Tuy nhiên đã có nghiên cứu cho thấy
người mẹ đang cho con bú mà tiêm chủng vắc xin rubella giảm độc lực sẽ bài
tiết virus qua sữa mẹ. Tuy nhiên chưa ghi nhận trường hợp nào trẻ bị mắc bệnh,
tuy vậy có 1 trẻ biểu hiện bệnh cảnh lâm sàng nhẹ, điển hình do nhiễm
rubella. Vì vậy vẫn cần thận trọng khi tiêm chủng M-M-R II cho phụ nữ đang
cho con bú.
Tác dụng không mong muốn:
Thường gặp:
- Đau nhức, rát bỏng tại nơi tiêm trong
một thời gian ngắn.
Ít gặp:
- Sốt từ 38,3°C trở lên
- Da nổi ban đỏ dạng sởi, có thể lan tỏa.
Triệu chứng nhẹ, có thể xảy ra trong ngày 5-12 sau khi tiêm.
Hiếm gặp:
- Hồng ban đa dạng, hội chứng
Stevens-Johnson, nổi mụn nước tại chỗ tiêm, sưng nề, ngứa, nốt phỏng và đỏ
da tại nơi tiêm, mày đay, ban đỏ, quầng cứng.
- Đau họng, khó chịu, sởi không điển
hình, ngất, dễ bị kích thích.
- Viêm mạch, bệnh lý hạch khu trú tại
vùng, giảm tiểu cầu, ban xuất huyết.
- Viêm tuyến mang tai, buồn nôn, nôn,
tiêu chảy.
- Viêm phổi, ho, viêm mũi, co thắt
phế quản
- Viêm mào tinh hoàn, viêm tinh hoàn.
- Phù mạch thần kinh, viêm dây thần
kinh, hội chứng Guillain-Barre, mất điều hòa vận động, viêm não, viêm thần
kinh thị giác, viêm thị thần kinh sau nhãn cầu, viêm gai thị, viêm võng mạc,
viêm kết mạc, liệt nhãn cầu, viêm tai giữa, điếc thần kinh.
- Đau khớp và/hoặc viêm khớp.
- Sốt, co giật ở trẻ em, nhức đầu,
choáng váng, .
Tương tác thuốc:
- Phải tiêm M-M-R II tối thiểu 1 tháng
với các loại vắc xin sống giảm độc lực khác.
- M-M-R II không làm giảm đáp ứng miễn
dịch của các vắc xin như: varicella sống giảm độc lực, các vắc xin liên hợp
chứa Haemophilus influenzae bất hoạt týp b (Hib),
khi tiêm cùng lúc nhưng bằng bơm kim tiêm riêng và ở vị trí khác nhau.
- Chưa có khuyến cáo việc dùng đồng thời
MMR với các vắc-xin DTP (bạch hầu, uốn ván, ho gà) và/hoặc OPV (vắc xin bại
liệt uống). Tuy nhiên dữ liệu từ một số tài liệu đã được công bố về việc sử
dụng cùng lúc MMR với các vắc-xin như DtaP [hoặc DTwP], IPV [hoặc OPV], vắc-xin
Hib, có kèm theo hoặc không kèm theo vắc-xin viêm gan B và varicella), cho
thấy không có tương tác giữa các vắc xin (bất kể đó là vắc-xin chứa tế bào
sống giảm độc lực hay đã làm chết).
- Sử dụng globulin miễn dịch cùng với
MMR có thể ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch. Vì vậy cần hoãn tiêm chủng ít
nhất 3 tháng sau khi sử dụng globulin miễn dịch hoặc truyền máu, huyết
tương.
Hiệu quả bảo vệ của vắc
xin M-M-R
- Một nghiên cứu lâm sàng trên 284 trẻ
từ 11 tháng tuổi đến 7 tuổi có huyết thanh âm tính với cả 3 virus sởi,
quai bị, rubella. Sau khi sử dụng M-M-R II cho thấy tính sinh miễn dịch
cao và dung nạp tốt. M-M-R II đã tạo kháng thể ức chế sự ngưng kết hồng cầu
do sởi, kháng thể trung hòa quai bị và kháng thể ức chế ngưng kết hồng cầu
do rubella, lần lượt trên 95%, 96% và 99% số người nhạy cảm chưa nhiễm bệnh.
Tuy nhiên có khoảng từ 1-5% số người tiêm, không đạt được sự chuyển đổi
huyết thanh sau liều tiêm đầu tiên.
- Nghiên cứu trên 752 người sử dụng
M-M-R II so sánh hiệu quả khi tiêm bắp và tiêm dưới da, cho thấy tính sinh
miễn dịch tương tự nhau giữa 2 đường dùng.
- Một số các nghiên cứu sau khi tiêm chủng
vẫn có thể phát hiện được các kháng thể trung hòa và ELISA đối với vi-rút
sởi, quai bị và rubella ở hầu hết các đối tượng ở thời điểm 11 đến 13 năm
sau lần tiêm chủng đầu tiên.
- Một nghiên cứu trên trẻ 6 tháng tuổi
và 15 tháng tuổi sinh ra từ các bà mẹ đã tiêm vắc xin ATTENUVAX (sởi) cho
thấy: kháng thể trung hòa được phát hiện ở 74% trẻ 6 tháng tuổi và ở 100%
trẻ 15 tháng tuổi. Tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh này cao hơn so với trẻ 6
tháng tuổi sinh ra từ các bà mẹ có miễn dịch tự nhiên do nhiễm bệnh.
- Hơn nữa trẻ 6 tháng tuổi sinh ra từ mẹ
đã được tiêm vắc xin mũi nhắc lại lúc 15 tháng. Kết quả cho thấy nồng độ
kháng thể đạt được ở trẻ lúc 6 tháng tuổi tương đương với nồng độ đo được ở
trẻ bắt đầu tiêm vắc-xin lúc 15 tháng.
Bảo quản:
- Bảo quản lọ vắc-xin đông khô ở 2oC
tới 8oC hoặc ở nhiệt độ thấp hơn.
- Dung môi có thể được bảo quản cùng với
bột vắc xin đông khô hoặc bảo quản riêng rẻ ở nhiệt độ phòng.
- Không làm đông lạnh dung môi.
- Cần dùng vắc xin càng sớm càng tốt
sau khi hoàn nguyên. Vắc xin sau khi hoàn nguyên chỉ có thể bảo quản trong
lọ trong chỗ tối từ 2oC tới 8oC và tối đa trong 8h.
Quá thời gian trên phải loại bỏ vắc xin.